Sử dụng Xa_kê

Xa kê là cây lương thực ổn định tại nhiều khu vực nhiệt đới. Nó được phổ biến ra xa khỏi quê hương bản địa của mình nhờ các thủy thủ Polynesia, những người đã chuyên chở các gốc ghép, cành giâm đi xa trên đại dương. Xa kê chứa nhiều tinh bột, và trước khi ăn nó có thể được quay, nướng, chiên, luộc. Khi được chế biến, nó có mùi vị giống như khoai tây hay tương tự như bánh mì mới nướng, vì thế mà có tên gọi cây bánh mì.

Quả xa kê - nguyên vẹn, bổ dọc và bổ ngang

Do xa kê thường sinh ra một sản lượng lớn trong một khoảng thời gian nhất định trong năm nên việc bảo quản là một vấn đề. Một kỹ thuật bảo quản truyền thống là chôn các quả đã bóc vỏ và rửa sạch trong hố lót bằng lá để lên men trong vài tuần tạo ra một loại bột nhão dính và chua. Được lưu trữ trong tự nhiên bằng phương pháp trên nên sản phẩm có thể giữ trong một khoảng thời gian dài, và một vài trong số đó được thông báo là sinh ra sản phẩm ăn được sau trên 20 năm[5]. Các tên gọi cho sản phẩm quả xa kê được lên men như vậy bao gồm mahr, ma, masi, furo, bwiru v.v.

Hình vẽ cây/quả xa kê của Sydney Parkinson

Quả xa kê có thể ăn sau khi nấu chín hoặc có thể chế biến tiếp thành các loại thức ăn khác. Một sản phẩm thông thường là hỗn hợp của khối nghiền nhừ thịt quả xa kê nấu chín hay lên men trộn với sữa dừa và nướng trong lá chuối. Quả còn nguyên có thể nướng, sau đó lấy lõi ra và nhồi bằng các thức ăn khác như sữa dừa, đường, bơ, thịt nấu chín hay các loại quả khác. Quả nhồi này có thể nấu tiếp để cho hương vị của các chất nhồi thấm vào cùi thịt của quả.

Một món ăn của người Hawaii gọi là poi làm từ củ khoai sọ nghiền nhừ có thể dễ dàng thay thế hay tăng thêm bằng xa kê nghiền nhừ. Món ăn này gọi là poi ʻulu. Tại Puerto Rico nó được gọi là "pana".

Quả xa kê chứa khoảng 25% cacbohydrat và 70% nước. Nó chứa trung bình khoảng 20 mg/100g là vitamin C và một lượng nhỏ khoáng chất (kalikẽm) cùng thiamin (100 μg)[6].

Xa kê được sử dụng rộng rãi và đa dạng đối với những người dân trên các đảo trong Thái Bình Dương. Gỗ của nó có khả năng chống mối và các loài (họ Teredinidae) nên hay được sử dụng để làm các loại canoe[7]. Lõi gỗ của nó cũng được dùng làm giấy, gọi là breadfruit tapa[7]. Nó cũng được sử dụng trong y học dân gian trên các đảo để chữa bệnh, từ đau mắt tới đau thần kinh hông[7].

Trong Y học

Lá Xa kê có tác dụng kháng viêm, kháng sinh, lợi tiểu, trị tiêu chảy, tiểu đường[8], cao huyết áp, sỏi thận, bệnh gútviêm gan vàng da. Thí nghiệm trên chuột tại Ấn Độ cho thấy cao khô (chiết bằng cồn 50 độ) của vỏ, lá Xa kê có tác dụng lợi tiểu ở liều 20 mg cao/kg khối lượng cơ thể, nhưng sẽ trở thành chất độc ở liều 80 mg/kg cơ thể. Liều lượng mỗi ngày dùng một lá dạng sắc uống, nhưng do lá có độc nên sau khi uống một tuần thì phải nghỉ một tuần, không được dùng liên tục như uống trà. Có thể dùng lá tươi hoặc là già, lá phơi khô đều được.[9]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Xa_kê http://www.proscitech.com.au/trop/j.htm http://www.healthaliciousness.com/nutritionfacts/n... http://www.montosogardens.com/artocarpus_altilis.h... http://www.stylecraze.com/articles/benefits-of-bre... http://www.hort.purdue.edu/newcrop/morton/breadfru... http://www.ars-grin.gov/cgi-bin/npgs/html/taxon.pl... http://ndb.nal.usda.gov/ndb/search/list?qlookup=09... http://www.amjbot.org/cgi/content/abstract/91/5/76... http://www.bioversityinternational.org/Publication... http://www.breadfruit.org